Hệ miễn dịch cũng có thể gây ung thư
- Thứ năm - 07/09/2017 09:42
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Một nghiên cứu mới mô tả cách làm thế nào đáp ứng miễn dịch đã được kích hoạt nhằm làm xáo trộn DNA virus lại cũng có thể làm xáo trộn DNA người, đôi khi theo cách gây ra ung thư...
Một nghiên cứu mới mô tả cách làm thế nào đáp ứng miễn dịch đã được kích hoạt nhằm làm xáo trộn DNA virus lại cũng có thể làm xáo trộn DNA người, đôi khi theo cách gây ra ung thư.
Nhiễm human papillomavirus (HPV) là nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung và một phần ung thư đầu cổ (head and neck cancers) trên khắp thế giới. Một bài báo của Trung tâm Ung thư thuộc Đại học Colorado mô tả một cơ chế rất thú vị về mối liên hệ giữa nhiễm virus và bệnh ung thư liên quan đến họ enzyme APOBEC3. Những enzyme APOBEC3 này là thành phần chủ yếu trong đáp ứng của hệ miễn dịch đối với nhiễm virus: tấn công DNA của virus nhằm gây ra các đột biến bất hoạt. Thật không may, hoạt động của các enzymes APOBEC3A này cũng có thể gây ra các đột biến và nguy hại cho DNA trong bộ gene vật chủ. Nói cách khác, hệ miễn dịch được kích hoạt nhằm tấn công DNA virus có thể cũng tấn công DNA của người, đôi khi dẫn tới ung thư.
“Chúng ta biết rằng phần lớn các bệnh ung thư là do các đột biến di truyền. Một vài cơ chế gây ra những đột biến này, ví dụ như bức xạ UV có thể gây đột biến dẫn đến ung thư da và hút thuốc có thể gây đột biến dẫn tới ung thư phổi. Nhưng có nhiều bệnh ung thư mà chúng ta không biết nguồn gốc của các đột biến. Họ enzymes APOBEC3 có thể giải thích cách một vài đột biến được tạo ra. Thực tế, APOBEC3A có thể được kích hoạt bằng nhiều con đường, không chỉ do nhiễm HPV – và hoạt động của nó có thể tạo ra các đột biến sinh ung thư liên quan tới nhiều loại ung thư”, theo lời của tiến sĩ Dohun Pyeon – nhà nghiên cứu tại Trung tâm Ung thư CU và là Phó giáo sư tại Khoa Miễn dịch và Vi sinh của Trường Y, Đại học Colorado.
Cụ thể, dữ liệu từ Bản đồ gene ung thư (Cancer Genome Atlas) cho thấy những dấu hiệu của đột biến trong gene PIK3CA do trung gian APOBEC3 chiếm khoảng 40% các trường hợp ung thư đầu cổ có HPV dương tính, nhưng chỉ khoảng 10% ở các ung thư đầu cổ có HPV âm tính. Ngoài ra, mức độ biểu hiện APOBEC3A cao hơn nhiều trong những trường hợp ung thư có HPV dương tính.
“Khoảng 4 năm trước, các nhà nghiên cứu gene về ung thư (Cancer genomics) đã phát hiện những dấu hiệu đột biến thú vị trong DNA của các tế bào ung thư liên quan đến các enzyme APOBEC3 gây ra. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy một phần đáng kể các đột biến ở những trường hợp ung thư có HPV dương tính có khả năng do một trong những enzyme APOBEC3 này gây ra”, tiến sĩ Pyeon nói.
Thật thú vị, cơ chế đáp ứng miễn dịch này có nguy cơ lớn gây hại cho DNA tế bào chủ lại không hoạt động tốt chống lại mục tiêu dự định của nó – virus HPV đã không bị APOBEC3A loại trừ hết sẽ tồn tại trong vật chủ và trở thành tác nhân gây nhiễm trùng mạn tính.
“Một bài báo khác vào năm 2015 của chúng tôi cho thấy virus HPV đã sửa lại bộ gene của chúng để chống lại enzyme APOBEC3, bằng cách thay thế và giảm những trình tự mục tiêu trong DNA của chúng”, Pyeon nói. Nếu APOBEC3 không nhận diện được trình tự mục tiêu, nó sẽ không làm gián đoạn DNA. “Trong trường hợp này, chúng ta có thể thấy một cuộc đua tiến hóa phức tạp – tế bào chủ tiến hóa hệ thống APOBEC3 nhắm đến virus, nhưng sau đó những virus cũng tiến hóa DNA của chúng nhằm lẩn tránh APOBEC3. Chúng ta không ở điểm kết thúc nào của quá trình tiến hóa, điều chúng ta có thể thấy là nỗ lực của cơ thể giúp hệ thống APOBEC3 tiến hóa nhanh hơn trong đáp ứng với virus”.
Pyeon chỉ ra rằng bởi vì APOBEC3A là một enzyme, nó có thể bị ảnh hưởng với sự phát triển thuốc nhằm chặn hoạt động của nó. Tuy nhiên, enzyme này không chỉ hoạt động 1 lần, nó tăng mãn tính cùng với sự nhiễm HPV, dẫn tới tỉ lệ đột biến ngày càng cao qua nhiều năm hoặc thậm chí hàng thập kỉ. Hơn nữa, cơ chế này mô tả cách ung thư có thể bắt đầu – và một khi ung thư đã tồn tại, việc ức chế APOBEC3A có thể đã quá muộn, như câu tục ngữ “mất bò mới lo làm chuồng”.
“Điều này phải trở thành một chiến lược ngăn ngừa ung thư”, Pyeon nói. “Có lẽ nếu bạn đã bị nhiễm HPV hoặc có lượng APOBEC3A đặc biệt cao, bạn có thể dùng thuốc nhằm ngăn ngừa bất cứ đột biến nghiêm trọng nào”.
Về mặt điều trị, Pyeon chỉ ra rằng dấu hiệu của các đột biến do APOBEC3 có thể là mục tiêu cho những liệu pháp miễn dịch mới trong điều trị ung thư.
“Hiện tại chúng ta có thể nhận ra những tế bào bị biến đổi bởi APOBEC3, chúng ta có thể thiết kế các liệu pháp miễn dịch ung thư dựa trên antigen mới (neoantigen) của khối u đế nhận diện những tế bào này”, Pyeon nói.
Nhiễm human papillomavirus (HPV) là nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung và một phần ung thư đầu cổ (head and neck cancers) trên khắp thế giới. Một bài báo của Trung tâm Ung thư thuộc Đại học Colorado mô tả một cơ chế rất thú vị về mối liên hệ giữa nhiễm virus và bệnh ung thư liên quan đến họ enzyme APOBEC3. Những enzyme APOBEC3 này là thành phần chủ yếu trong đáp ứng của hệ miễn dịch đối với nhiễm virus: tấn công DNA của virus nhằm gây ra các đột biến bất hoạt. Thật không may, hoạt động của các enzymes APOBEC3A này cũng có thể gây ra các đột biến và nguy hại cho DNA trong bộ gene vật chủ. Nói cách khác, hệ miễn dịch được kích hoạt nhằm tấn công DNA virus có thể cũng tấn công DNA của người, đôi khi dẫn tới ung thư.
“Chúng ta biết rằng phần lớn các bệnh ung thư là do các đột biến di truyền. Một vài cơ chế gây ra những đột biến này, ví dụ như bức xạ UV có thể gây đột biến dẫn đến ung thư da và hút thuốc có thể gây đột biến dẫn tới ung thư phổi. Nhưng có nhiều bệnh ung thư mà chúng ta không biết nguồn gốc của các đột biến. Họ enzymes APOBEC3 có thể giải thích cách một vài đột biến được tạo ra. Thực tế, APOBEC3A có thể được kích hoạt bằng nhiều con đường, không chỉ do nhiễm HPV – và hoạt động của nó có thể tạo ra các đột biến sinh ung thư liên quan tới nhiều loại ung thư”, theo lời của tiến sĩ Dohun Pyeon – nhà nghiên cứu tại Trung tâm Ung thư CU và là Phó giáo sư tại Khoa Miễn dịch và Vi sinh của Trường Y, Đại học Colorado.
Cụ thể, dữ liệu từ Bản đồ gene ung thư (Cancer Genome Atlas) cho thấy những dấu hiệu của đột biến trong gene PIK3CA do trung gian APOBEC3 chiếm khoảng 40% các trường hợp ung thư đầu cổ có HPV dương tính, nhưng chỉ khoảng 10% ở các ung thư đầu cổ có HPV âm tính. Ngoài ra, mức độ biểu hiện APOBEC3A cao hơn nhiều trong những trường hợp ung thư có HPV dương tính.
“Khoảng 4 năm trước, các nhà nghiên cứu gene về ung thư (Cancer genomics) đã phát hiện những dấu hiệu đột biến thú vị trong DNA của các tế bào ung thư liên quan đến các enzyme APOBEC3 gây ra. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy một phần đáng kể các đột biến ở những trường hợp ung thư có HPV dương tính có khả năng do một trong những enzyme APOBEC3 này gây ra”, tiến sĩ Pyeon nói.
Thật thú vị, cơ chế đáp ứng miễn dịch này có nguy cơ lớn gây hại cho DNA tế bào chủ lại không hoạt động tốt chống lại mục tiêu dự định của nó – virus HPV đã không bị APOBEC3A loại trừ hết sẽ tồn tại trong vật chủ và trở thành tác nhân gây nhiễm trùng mạn tính.
“Một bài báo khác vào năm 2015 của chúng tôi cho thấy virus HPV đã sửa lại bộ gene của chúng để chống lại enzyme APOBEC3, bằng cách thay thế và giảm những trình tự mục tiêu trong DNA của chúng”, Pyeon nói. Nếu APOBEC3 không nhận diện được trình tự mục tiêu, nó sẽ không làm gián đoạn DNA. “Trong trường hợp này, chúng ta có thể thấy một cuộc đua tiến hóa phức tạp – tế bào chủ tiến hóa hệ thống APOBEC3 nhắm đến virus, nhưng sau đó những virus cũng tiến hóa DNA của chúng nhằm lẩn tránh APOBEC3. Chúng ta không ở điểm kết thúc nào của quá trình tiến hóa, điều chúng ta có thể thấy là nỗ lực của cơ thể giúp hệ thống APOBEC3 tiến hóa nhanh hơn trong đáp ứng với virus”.
Pyeon chỉ ra rằng bởi vì APOBEC3A là một enzyme, nó có thể bị ảnh hưởng với sự phát triển thuốc nhằm chặn hoạt động của nó. Tuy nhiên, enzyme này không chỉ hoạt động 1 lần, nó tăng mãn tính cùng với sự nhiễm HPV, dẫn tới tỉ lệ đột biến ngày càng cao qua nhiều năm hoặc thậm chí hàng thập kỉ. Hơn nữa, cơ chế này mô tả cách ung thư có thể bắt đầu – và một khi ung thư đã tồn tại, việc ức chế APOBEC3A có thể đã quá muộn, như câu tục ngữ “mất bò mới lo làm chuồng”.
“Điều này phải trở thành một chiến lược ngăn ngừa ung thư”, Pyeon nói. “Có lẽ nếu bạn đã bị nhiễm HPV hoặc có lượng APOBEC3A đặc biệt cao, bạn có thể dùng thuốc nhằm ngăn ngừa bất cứ đột biến nghiêm trọng nào”.
Về mặt điều trị, Pyeon chỉ ra rằng dấu hiệu của các đột biến do APOBEC3 có thể là mục tiêu cho những liệu pháp miễn dịch mới trong điều trị ung thư.
“Hiện tại chúng ta có thể nhận ra những tế bào bị biến đổi bởi APOBEC3, chúng ta có thể thiết kế các liệu pháp miễn dịch ung thư dựa trên antigen mới (neoantigen) của khối u đế nhận diện những tế bào này”, Pyeon nói.