Độ bền của SARS-CoV-2 trong không khí và trên bề mặt so với SARS-CoV-1
Thứ ba - 21/04/2020 13:26
Một loại virút corona mới ở người hiện được đặt tên là virút corona gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS-CoV-2) (trước đây gọi là HcoV-19) đã xuất hiện ở Vũ Hán,...
Một loại virút corona mới ở người hiện được đặt tên là virút corona gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS-CoV-2) (trước đây gọi là HcoV-19) đã xuất hiện ở Vũ Hán, Trung Quốc, vào cuối năm 2019 và hiện đang gây ra đại dịch. Chúng tôi đã phân tích độ bền trong không khí và trên bề mặt của virút SARS-CoV-2 so với SARS-CoV-1, virút có liên quan mật thiết với virút corona người. Chúng tôi đánh giá độ bền cùa virút SARS-CoV-2 và SARS-CoV-1 trong mội trường không khí và trên những bề mặt khác nhau và ước tính độ phân rã bằng mô hình hồi quy Bayes (Xem phần phương pháp trong phụ lục bổ sung, có sẵn trong bài toàn văn này tại NEJM.org). SARS-CoV-2 nCoV-WA1-2020 (MN985325.1) and SARS-CoV-1 Tor2 (AY274119.3) là các chủng được sử dụng. Pha khí (<5um) chứa SARS-CoV-2 (105.25 50% liều xâm nhiễm trong nuôi cấy mô [TCID50]/ml) SARS-CoV-1 (106.75-7.00 TCID50/ml ) được tạo ra bằng cách sử dụng bộ ba máy phun sương Collison và đẩy vào trong thiết bị Goldberg để tạo môi trường khí dung. Chủng tiêm có kết quả trong ngưỡng giá trị từ 20- 22 chu kỳ, giống với quan sát ở mẫu thu nhận từ đường hô hấp trên và hô hấp dưới ở người.
Dữ liệu của chúng tôi bao gồm 10 điều kiện thí nghiệm liên quan đến hai loại virút (SARS-CoV-2 and SARS-CoV-1) trong năm điều kiện môi trường (không khí, nhựa, thép không gỉ, đồng và bìa cứng). Tất cả các phép đo trong thí nghiệm được thực hiện ba lần lặp lại.
Hình 1. Khả năng sống của SARS-CoV-1 và SARS-CoV-2 trong khí dung và trên những bề mặt khác nhau.
SARS-CoV-2 vẫn tồn tại trong các pha khí trong suốt thời gian thử nghiệm (3 giờ), với việc giảm hiệu quả truyền nhiễm xuống từ 103.5 xuống 102.7 TCID50/ lít không khí. Mức giảm này tương tự như ghi nhận với SARS-CoV-1, từ 104.3 xuống 103.5 TCID50/ml (Hình 1A).
SARS-CoV-2 ổn định hơn trên nhựa và thép không gỉ so với bề mặt đồng và bìa cứng và virút được phát hiện tới 72 giờ sau khi thử lên các bề mặt (Hình 1A), mặc dù lượng virút đã giảm đáng kể (từ 103.7 đến 100.6 TCID50/ml môi trường sau 72 giờ trên nhựa và từ 103.7 tới 100.6 TCID50/ml sau 48 giờ trên thép không gỉ). Động lực ổn định của SARS-CoV-1 là tương tự nhau (từ 103.4 xuống 100.7 TCID50/ml sau 72 giờ trên nhựa và từ 103.6 xuống 100.6 TCID50/ml sau 48 giờ trên thép không gỉ). Trên đồng, không có SARS-CoV-2 không có SARS-CoV-2 nào đo được sau 4 giờ và không có SARS-CoV-1 nào đo được sau 8 giờ. Trên bìa cứng không có SARS-CoV-2 đo được sau 24 giờ và không có SARS-CoV-1 nào đo được sau 8 giờ (Hình 1A).
Cả hai loại virút này đều có sự phân rã theo hàm mũ theo tiêu chí đo lường virút trong thí nghiệm, được biểu thị bằng sự giảm tuyến tính của log10TCID50 mỗi lít không khí hoặc ml môi trường theo thời gian (Hình 1B). Thời gian bán phân hủy của SARS-CoV-2 và SARS-CoV-1 là tương tự nhau trong pha khí, với ước tính trung bình khoảng 1,1 đến 1,2 giờ và khoảng tin cậy 95% từ 0.64 đến 2.64 cho SARS-CoV-2 và 0.78 tới 2.43 ở SARS-CoV-1 (Hình 1C), và bảng S1 trong phụ lục). Thời gian bán hủy của hai loại virút này cũng tương tự trên đồng, trên bìa cứng thời gian bán hủy của SARS-CoV-2 dài hơn SARS-CoV-1. Khả năng tồn tại của hai loại virút này là trên thép không gỉ và trên nhựa, thời gian bán hủy trung bình ước tính của SARS-CoV-2 là 5.6 giờ trên thép không gỉ và 6.8 giờ trên nhựa (Hình 1C). Ước tính sự khác biệt về thời gian bán hủy của 2 loại virút là nhỏ ngoại trừ những loại trên bìa cứng (Hình 1C). Dữ liệu sao chép riêng lẻ đáng chú ý là không có “tín hiệu nhiễu” (nghĩa là, có nhiều biến trong thí nghiệm dẫn đến lỗi sai số sẽ lớn hơn) đối với bìa cứng so với các bề mặt khác (Hình S1 đến S5). Vì vậy chúng tôi khuyên bạn thận trọng khi diễn giải kết quả này.
Nguồn: https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMc2004973
Chúng tôi thấy rằng tính ổn định của SARS-CoV-2 tương tự như SARS-CoV-1 trong các trường hợp thử nghiệm được kiểm tra. Điều này cho thấy sự khác biệt về đặc điểm dịch tễ của các loại virút này có thể xuất phát từ các yếu tố khác, bao gồm tải lượng virút cao ở đường hô hấp trên và khả năng những người bị nhiễm SARS-CoV-2 sẽ bị nhiễm và truyền virút trong khi không có triệu chứng. Kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng việc truyền khí dung và vật truyền bệnh của SARS-CoV-2 là hợp lý. Vì virút có thể lây nhiễm và tồn tại trong không khí trong nhiều giờ và trên bề mặt vật liệu đến nhiều ngày (tùy thuộc vào loại vật liệu). Những kết quả này được lặp lại với SARS-CoV-1, trong đó các hình thức lây truyền này có liên quan đến các sự kiện lan truyền bệnh viện và siêu lây lan và chúng cung cấp thông tin cho các nỗ lực giảm thiểu dịch bệnh.
Tác giả bài viết: Huỳnh Vũ - P. CNSH Y dược