Giống cái lưu trữ tinh trùng như thế nào?
- Thứ sáu - 23/09/2016 08:51
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Nghiên cứu về sự sinh sản của loài gà đã làm sáng tỏ một phần bí mật làm cách nào mà giống cái có khả năng lưu giữ tinh trùng trong thời gian dài. Các giọt acid béo truyền từ các tế bào “cái”sang các tế bào tinh trùng có thể đóng góp vào quá trình giữ tinh trùng sống sót
Nghiên cứu về sự sinh sản của loài gà đã làm sáng tỏ một phần bí mật làm cách nào mà giống cái có khả năng lưu giữ tinh trùng trong thời gian dài. Các giọt acid béo truyền từ các tế bào “cái”sang các tế bào tinh trùng có thể đóng góp vào quá trình giữ tinh trùng sống sót
Giống cái của một số loài như côn trùng, bò sát và chim có khả năng lưu trữ tinh trùng từ nhiều con đực trong một vùng dự trữ tinh trùng đặc biệt của bộ máy sinh sản. Những loài động vật này có thể lưu trữ tinh trùng sống sót từ vài ngày cho tới vài năm. Tinh trùng dự trữ có khả năng thu tinh nhiều trứng qua thời gian, điều đó có nghĩa giống cái của các loài này không cần giao phối lại để thụ tinh cho các trứng mới của chúng
Tiến sĩ Yukinori Yoshimura, trưởng trung tâm nghiên cứu về khoa học động vật và là giáo sư của khoa sau đại học khoa học sinh quyển của trường đại học Hiroshima nói. “Nông dân có thể có khả năng thành công hơn trong việc tăng đàn gia cầm của họ nếu chúng ta có thể hiểu biết làm cách nào mà tinh trùng có thể sống sót trong ống dự trữ tinh trùng của gà mái. Nghiên cứu sự sinh sản này ý nghĩa đặc biệt liên quan tới các nước mà tỷ lệ sinh sản của các giống gà bản địa thấp”.
Yoshimura lãnh đạo nhóm nghiên cứu về xác định năm loại lipid, hoặc các acid béo mà tồn tại như các giọt trong các tế bào của ống dự trữ tinh trùng của gà mái. Sau khi gà được thụ tinh nhân tạo, gen liên quan tới sự phá vỡ các lipid này hoạt động tăng thêm 2,5 lần. Những thành phần lipid bị phân cắt này có thể được giải phóng vào trong ống giữ tinh và nâng cao khả năng sống sót của các tinh trùng.
Các nhà nghiên cứu đưa các tinh trùng sạch được chọn lọc của gà trống vào các dung dịch có nồng độ khác nhau của mỗi loại lipid. Trong dung dịch có nồng độ cao của hai loại lipid, oleic acid và linoleic acid tinh trùng được tăng số lượng sống sót sau 24 giờ.
“Chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu sâu hơn ở mức độ tế bào về bằng cách nào mà các tế bào “cái” và tinh trùng sữ dụng những lipid này, nhưng tôi cũng muốn kiểm tra xem nếu bổ sung vào thức ăn của gà mái trái oliu hoặc hạt hướng dương, là những loài thức ăn giàu oleic acid thì nó có thể nâng cao sự thụ tinh hay không? Ông Yoshimura nói.
Những con gà tham gia vào thí nghiệm này đểu có khả năng sinh sản như nhau và bao gồm cả các loài gà lấy thịt và lấy trứng.
Lưu trữ tinh trùng ở loài động vật có vú chỉ được ghi nhận ở loài dơi, nhưng trong một số lĩnh vực như thuần chủng các loài ngựa hoang hay bảo tồn các loài động vật nguy cơ tuyệt chũng cũng tin dùng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Một sự hiểu biết khoa học về cách thức tinh trùng được lưu trữ lâu dài có thể mang lại nhiều lợi ích cho các công việc liên quan tới việc thụ tinh.
Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên Hiệp Quốc thống kê từ năm 2013 thế giới đã sản xuất 9,6 triệu tấn gà, đứng thứ 18 trong các danh sách các mặt hàng phổ biến trên toàn cầu. Trứng gà đứng thứ 26 với 6,8 triệu tấn sản xuất trên toàn cầu.
Giống cái của một số loài như côn trùng, bò sát và chim có khả năng lưu trữ tinh trùng từ nhiều con đực trong một vùng dự trữ tinh trùng đặc biệt của bộ máy sinh sản. Những loài động vật này có thể lưu trữ tinh trùng sống sót từ vài ngày cho tới vài năm. Tinh trùng dự trữ có khả năng thu tinh nhiều trứng qua thời gian, điều đó có nghĩa giống cái của các loài này không cần giao phối lại để thụ tinh cho các trứng mới của chúng
Tiến sĩ Yukinori Yoshimura, trưởng trung tâm nghiên cứu về khoa học động vật và là giáo sư của khoa sau đại học khoa học sinh quyển của trường đại học Hiroshima nói. “Nông dân có thể có khả năng thành công hơn trong việc tăng đàn gia cầm của họ nếu chúng ta có thể hiểu biết làm cách nào mà tinh trùng có thể sống sót trong ống dự trữ tinh trùng của gà mái. Nghiên cứu sự sinh sản này ý nghĩa đặc biệt liên quan tới các nước mà tỷ lệ sinh sản của các giống gà bản địa thấp”.
Yoshimura lãnh đạo nhóm nghiên cứu về xác định năm loại lipid, hoặc các acid béo mà tồn tại như các giọt trong các tế bào của ống dự trữ tinh trùng của gà mái. Sau khi gà được thụ tinh nhân tạo, gen liên quan tới sự phá vỡ các lipid này hoạt động tăng thêm 2,5 lần. Những thành phần lipid bị phân cắt này có thể được giải phóng vào trong ống giữ tinh và nâng cao khả năng sống sót của các tinh trùng.
Các nhà nghiên cứu đưa các tinh trùng sạch được chọn lọc của gà trống vào các dung dịch có nồng độ khác nhau của mỗi loại lipid. Trong dung dịch có nồng độ cao của hai loại lipid, oleic acid và linoleic acid tinh trùng được tăng số lượng sống sót sau 24 giờ.
“Chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu sâu hơn ở mức độ tế bào về bằng cách nào mà các tế bào “cái” và tinh trùng sữ dụng những lipid này, nhưng tôi cũng muốn kiểm tra xem nếu bổ sung vào thức ăn của gà mái trái oliu hoặc hạt hướng dương, là những loài thức ăn giàu oleic acid thì nó có thể nâng cao sự thụ tinh hay không? Ông Yoshimura nói.
Những con gà tham gia vào thí nghiệm này đểu có khả năng sinh sản như nhau và bao gồm cả các loài gà lấy thịt và lấy trứng.
Lưu trữ tinh trùng ở loài động vật có vú chỉ được ghi nhận ở loài dơi, nhưng trong một số lĩnh vực như thuần chủng các loài ngựa hoang hay bảo tồn các loài động vật nguy cơ tuyệt chũng cũng tin dùng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Một sự hiểu biết khoa học về cách thức tinh trùng được lưu trữ lâu dài có thể mang lại nhiều lợi ích cho các công việc liên quan tới việc thụ tinh.
Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên Hiệp Quốc thống kê từ năm 2013 thế giới đã sản xuất 9,6 triệu tấn gà, đứng thứ 18 trong các danh sách các mặt hàng phổ biến trên toàn cầu. Trứng gà đứng thứ 26 với 6,8 triệu tấn sản xuất trên toàn cầu.
Người dịch: Nguyễn Xuân Đồng
Nguồn: https://www.sciencedaily.com/releases/2016/06/160613102430.htm